Dù là xu thế tất yếu trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, quá trình số hóa di sản tại Hà Nội vẫn đứng trước nhiều thách thức.
Để hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi số trên toàn thành phố Hà Nội, thời gian qua, ngành văn hóa cùng các địa phương đã chủ động thúc đẩy tiến trình số hóa hệ thống di tích. Theo định hướng đặt ra, đến cuối năm 2025, toàn bộ các điểm di tích trên địa bàn Thủ đô sẽ được hoàn thiện số hóa. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi nỗ lực lớn, sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành. Nhờ tích cực triển khai, một số địa phương đã “về đích” sớm.
Nhờ tích cực triển khai, quận Hai Bà Trưng (cũ) đã hoàn thành số hóa 100% di tích trên địa bàn.
Quận Hai Bà Trưng (cũ) là một thí dụ điển hình. Trước khi sáp nhập địa giới hành chính, quận Hai Bà Trưng (cũ) là đơn vị đầu tiên của thành phố Hà Nội hoàn thành triển khai số hóa 360° cho toàn bộ 100% các điểm di tích có trên địa bàn quận và số hóa 3D các hiện vật, cổ vật có tại các điểm di tích.
Quận đã rà soát, xây dựng hệ thống dữ liệu một cách đồng bộ và đưa thông tin lên website: https://360ditich.haibatrung.hanoi.gov.vn/vi giới thiệu toàn bộ 51 di tích. Các di tích được chia theo các cấp độ khác nhau và được hệ thống một cách khoa học, cho phép người dùng trải nghiệm “không gian tham quan ảo 360°” cùng với những hình ảnh sinh động của các hiện vật lịch sử.
Nằm trên phố Hương Viên, cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật gồm đền Hai Bà Trưng, đình Đồng Nhân và chùa Viên Minh là một trong những địa điểm thờ Hai Bà Trưng tiêu biểu, gắn liền với truyền thống tôn vinh hai vị nữ anh hùng dân tộc. Cụm di tích gồm ba công trình: đền Hai Bà Trưng, đình Đồng Nhân và chùa Viên Minh. Với giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa và kiến trúc, nơi đây đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào cuối năm 2019. Đến năm 2025, Lễ hội đền Hai Bà Trưng tiếp tục được ghi nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật Đền, Chùa, Đình Hai Bà Trưng.
Hòa cùng dòng chảy của chuyển đổi số, cụm di tích đã và đang tích cực ứng dụng công nghệ để đưa di sản đến gần hơn với công chúng. Tại các điểm di tích, hệ thống mã QR được bố trí thuận tiện, giúp du khách dễ dàng tra cứu thông tin về lịch sử, kiến trúc, hiện vật chỉ bằng một thao tác quét đơn giản trên điện thoại thông minh.
Cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật Đền, Chùa, Đình Hai Bà Trưng ứng dụng mã QR giúp du khách dễ dàng tìm hiểu thông tin về di tích.
Website "360° Di tích lịch sử quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội" giúp du khách khám phá các di tích ở nhiều góc độ mới.
Hơn nữa, thông qua công nghệ 360° trên hệ thống online, người dân có thể tiếp cận cụm di tích bằng hình ảnh số hóa sinh động, từ góc nhìn toàn cảnh đến các chi tiết kiến trúc đặc sắc. Công nghệ 360° cho phép tương tác trực tiếp, mang đến trải nghiệm tham quan chân thực và thuận tiện, nhất là với những người ở xa hoặc gặp khó khăn trong việc di chuyển.
Website "360° Di tích lịch sử quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội" được tích hợp âm thanh, video, hình ảnh, bài viết thuyết minh tạo trải nghiệm đa phương tiện cho người dùng. Tích hợp bản đồ số, thuyết minh tự động, tra cứu thông tin bằng mã QR, cung cấp thông tin chi tiết về vị trí và đối tượng của từng di tích. Qua đó, tạo điều kiện cho du khách dễ dàng tìm kiếm, di chuyển đến các điểm đến du lịch.
Thêm vào đó, du khách có thể khám phá, tương tác với các hiện vật 3D gắn với từng điểm di tích, tự do tương tác với hiện vật, xoay, lật, khám phá từng chi tiết một cách trực tiếp (đây là ứng dụng công nghệ thông tin chuyên sâu trong lĩnh vực du lịch, đã và đang được triển khai rất thành công tại các khu du lịch, di tích, bảo tàng nổi tiếng trên thế giới).
Điều này có ý nghĩa rất lớn trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị lịch sử - văn hóa, đồng thời tạo ra những trải nghiệm độc đáo, mới lạ, giúp nâng cao sự thu hút và trải nghiệm khác biệt tại khu di tích trong mắt khách tham quan. Du khách được tương tác, trải nghiệm thực tế về các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, điểm đến du lịch, các dịch vụ du lịch một cách trực quan, sinh động giống như đang đứng ngay tại không gian và địa điểm đó.
Bà Nguyễn Thu Hà (63 tuổi, sống tại Hà Nội) chia sẻ: “Tôi chỉ cần mở điện thoại là có thể vào xem từng gian thờ, từng bức tượng trong đền. Dù không trực tiếp đến nơi, tôi vẫn thấy rõ từng chi tiết. Công nghệ này giúp tôi cảm nhận di tích theo cách rất mới, dễ tiếp cận và thú vị”.
Dù ở tại nhà, người dân vẫn có thể khám phá Cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật Đền, Chùa, Đình Hai Bà Trưng qua website du lịch thực tế ảo 360°.
Chị Nguyễn Phương Mai (phường Hai Bà Trưng, Hà Nội) chia sẻ, chị vốn là người yêu thích khám phá lịch sử và thường xuyên tìm đến các di tích văn hóa tại Hà Nội để tìm hiểu về quá khứ dân tộc. Trước đây, mỗi lần muốn hiểu sâu về một di tích nào đó, chị thường phải cất công di chuyển và có sự đồng hành của hướng dẫn viên để được cung cấp thông tin đầy đủ.
Thế nhưng, kể từ khi các di tích trên địa bàn Hà Nội ứng dụng công nghệ số, việc tiếp cận thông tin trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh, vài thao tác tìm kiếm đơn giản, chị Mai đã có thể tiếp cận toàn bộ dữ liệu lịch sử, kiến trúc, giá trị văn hóa của nhiều di tích, đặc biệt là các điểm di tích ở phường Hai Bà Trưng - nơi chị sinh sống.
Được ra mắt từ cuối tháng 5.2024, đến nay, trang web "360° di tích lịch sử - văn hóa quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội" đã có hơn 2 triệu lượt người truy cập. Chị Đào Thị Thu Phương - Chuyên viên Phòng Văn hóa - Xã hội, phường Hai Bà Trưng - cho biết, kể từ khi tiến hành số hóa các di tích, di sản trên địa bàn, số lượng du khách đến đông hơn hẳn so với thời điểm trước - một tín hiệu đáng mừng trong quá trình số hóa.
Việc đưa công nghệ vào không gian di tích không chỉ mở rộng khả năng tiếp cận, mà còn góp phần quan trọng trong bảo tồn, quảng bá giá trị di sản, giúp gìn giữ các lớp văn hóa truyền thống trong hình hài mới của thời đại số.
Website "360° Di tích lịch sử quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội" đã số hóa, tích hợp toàn bộ các thông tin về di tích trên địa bàn quận Hai Bà Trưng (cũ).
Trao đổi với Lao Động - Bà Nguyễn Thị Hoài Thu - Phó Trưởng phòng, Phòng Văn hóa - Xã hội phường Hai Bà Trưng - cho biết, đối với góc độ quản lý nhà nước về thông tin di tích, website "360° Di tích lịch sử quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội" cho phép quản lý, quản trị toàn bộ các hồ sơ, tài liệu bao gồm cả thông tin tư liệu về các hiện vật của các di tích lịch sử một cách khoa học và thuận tiện. Website "360° Di tích lịch sử quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội" có thể dễ dàng tích hợp lên Cổng thông tin điện tử phường, ứng dụng nhịp sống số Hai Bà Trưng, Zalo OA của phường... Việc số hóa 3D kết hợp không gian ảo 360° sẽ lưu giữ được các nét nguyên bản của di tích, hiện vật, cổ vật... nhằm hỗ trợ thuận lợi công tác duy tu, tôn tạo di tích, hiện vật sau này.
Trong thời gian tới, phường Hai Bà Trưng có định hướng sẽ thiết kế ứng dụng 360° Di tích lịch sử quận Hai Bà Trưng trên di động (App Mobile) để người dân, du khách dễ dàng tiếp cận, tương tác và trải nghiệm thăm quan ảo 3D ngay trên điện thoại thông minh.
Mô hình số hóa di tích của phường Hai Bà Trưng phù hợp với định hướng phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm du lịch thông minh, ứng dụng chuyển đổi số đã được nêu tại Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 26.6.2016 của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội về phát triển du lịch Hà Nội giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo; Kế hoạch số 191/KH-UBND ngày 30.9.2020 của UBND thành phố về việc thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Theo lộ trình, Hà Nội sẽ số hóa 100% các di tích, điều này là cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay, mỗi địa phương lại triển khai việc số hóa theo một cách khác nhau dẫn đến sự thiếu đồng bộ.
Chị Đào Thị Thu Phương - Chuyên viên Phòng Văn hóa - Xã hội, phường Hai Bà Trưng - cho biết, sau khi thực hiện sáp nhập địa giới hành chính, công tác quản lý di tích trên địa bàn gặp không ít thách thức, đặc biệt là vấn đề nhân lực và khoảng cách địa lý. Các di tích ở phường Hai Bà Trưng chủ yếu là các đền, đình, chùa, trước đây khi chưa sáp nhập, quy mô nhỏ nên dễ quản lý hơn. Sau sáp nhập, số lượng di tích nhiều hơn nên gây khó khăn trong việc đi lại, giám sát và bảo đảm an ninh trật tự.
Bên cạnh đó, nhân lực trông coi tại các điểm di tích cũng hạn chế, đặc biệt là tại các chùa, khi bước vào Ba tháng An cư kiết hạ (từ 15.4 Âm lịch - 15.7 Âm lịch), các sư thầy sẽ ít có thời gian trông coi tại các điểm di tích nên nếu áp dụng số hóa tại đây, việc truyền đạt tới các du khách sẽ gặp khó khăn.
Theo chị Phương, một trong những khó khăn lớn hiện nay là việc tìm được nhân sự có thể đảm nhiệm song song hai nhiệm vụ: vừa am hiểu văn hóa, vừa thành thạo công nghệ để hỗ trợ công tác số hóa.
Hiện nay, dù địa phương đã triển khai các điểm quét mã QR tại các di tích để cung cấp thông tin tới du khách, nhưng phần lớn người cao tuổi vẫn còn lúng túng khi sử dụng thiết bị điện tử, khiến hiệu quả ứng dụng công nghệ chưa thực sự cao.
"Tôi nghĩ rằng việc đào tạo những nhân lực am hiểu về số hóa và di tích là rất cần thiết để tăng cường nhân lực cho các điểm di tích, có như vậy, công tác số hóa mới phát huy được hiệu quả" - chị Phương cho hay.
Liên quan đến bài toán kinh phí, chị Phương cho hay, quá trình số hóa di sản đòi hỏi nguồn lực tài chính rất lớn, trong khi cả nước đang cùng bước vào thời kỳ chuyển đổi số toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
Nói về khó khăn trong công tác số hóa di tích, di sản, Nhà nghiên cứu văn hóa - TS Nguyễn Ánh Hồng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) - cho rằng, trở ngại đầu tiên nằm ở công đoạn sưu tầm, phân loại và đánh giá - làm sao để xác định chính xác giá trị của từng loại hình di sản, xây dựng một quy trình số hóa mang tính tổng quát, thống nhất là bài toán không dễ giải.
Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng là kho tàng khổng lồ về di sản văn hóa, không chỉ có di sản được thế giới công nhận mà còn có nhiều di sản cấp quốc gia, cấp tỉnh... Việc số hóa toàn bộ là một nhiệm vụ đầy thách thức. Bà cho rằng, điều này đòi hỏi phải có nền tảng công nghệ thông tin đủ mạnh, song công nghệ chỉ là công cụ. Quan trọng hơn là cần đội ngũ nhân lực có chuyên môn - những người biết sử dụng công nghệ để triển khai quy trình số hóa.
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, việc Hà Nội đặt mục tiêu hoàn thành số hóa 100% di tích vào năm 2025 là hoàn toàn khả thi về mặt thời gian. Tuy nhiên, ông cho rằng để việc số hóa đạt hiệu quả thực chất, không chỉ Hà Nội mà các địa phương khác cũng cần có sự chỉ đạo đồng bộ, sát sao, tránh tình trạng mỗi địa phương làm một kiểu, báo cáo xong nhưng không kết nối được với hệ thống chung.
Tại một số địa phương, việc triển khai số hóa hiện còn mang nặng tính chất “dự án”, nghĩa là quá chú trọng tới đầu tư, nguồn lực, nhưng lại thiếu sự chuẩn hóa và đồng bộ giữa các đơn vị thực hiện.
Trong lĩnh vực di tích, cần làm rõ việc mô tả hiện vật để thực hiện số hóa. Công tác này cần sự chỉ đạo rõ ràng, có “đề bài” cụ thể và quy trình kiểm tra sản phẩm. Ông cho rằng điều quan trọng là phải làm cho người dân - ngoài những người chuyên môn nhận thức rõ lợi ích của số hóa để biết cách khai thác. Nếu không, ngay cả khi sở hữu một “tài sản lớn” là kho dữ liệu số, người dân không quen dùng thì hiệu quả cũng sẽ bị hạn chế.
“Tôi rất ủng hộ khái niệm “bình dân học vụ số” mà Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, tức là làm sao để mỗi người dân đều có kỹ năng sử dụng công nghệ, hiểu và khai thác được thành quả của số hóa, của trí tuệ nhân tạo. Có như vậy, giá trị của việc số hóa di sản mới thực sự được phát huy” - Nhà sử học Dương Trung Quốc chia sẻ.